Cập nhật ngày: 04/07/2019 18:01
Truyền thuyết Hùng Vương còn kể các Vua Hùng đã đi thăm dân, dạy dân trồng lúa, cấy lúa, lại cùng các lão làng khấn vía lúa, cầu trời đất cho dân no đủ. Và nơi Vua Hùng lên gọi Vía lúa là đỉnh núi Hùng - là nơi thờ trời, thờ Thần lúa. Nơi ấy ngày nay là đền Thượng trên núi Nghĩa Lĩnh, xã Hy Cương, thuộc di tích quốc gia đặc biệt Khu Di tích lịch sử Đền Hùng. Trong ngôi đền này, xưa có thờ một tảng đá đẽo hình vỏ trấu to bằng cái thuyền. Và lễ tế “Lúa thần” vào ngày mồng một tháng Giêng và ngày mùng 10 tháng 10 âm lịch hàng năm. Người dân vẫn truyền lại rằng, tại chính nơi đây, từ thủa khai lập Nhà nước Văn Lang, các vua Hùng hàng năm kế tục nhau lên cầu trời đất, khấn tế gọi vía hạt Lúa thần và cầu cho mưa thuận gió hòa, an dân hạnh phúc, kết hợp chặt chẽ với các lễ thức “tế khí” - đánh trống đồng.
Lễ xuống đồng là nghi thức bộc lộ trực tiếp, rõ nhất trong lễ nghi nông nghiệp và cũng lại rất thực tiễn, tập trung vào một người là “Mẹ lúa”. Ở làng Cổ Tích (xã Hy Cương, thành phố Việt Trì), Lễ hạ điền được tổ chức vào ngày 25 tháng 5 âm lịch. Lễ vật gồm ván xôi gà và ba bó mạ. Ông chúa đồng là người được dân làng chọn cử, chít khăn đỏ, áo đỏ xuống đồng cấy lúa. Khi Chúa đồng cấy xong, dân làng lấy bùn nhão tung vào Chúa đồng làm cho Chúa đồng ướt hết, với ý nghĩa cầu mong mưa thuận gió hòa. Như vậy, ở lễ xuống đồng này người ta thực hiện luôn cả tục cầu nước.
Lễ hội Vua Hùng dạy dân cấy lúa ở phường Minh Nông tái hiện rõ nét truyền thuyết về Vua Hùng dạy dân cấy lúa. Đó là lệ cầu xuống đồng vào ngày 1/6 và 1/11 âm lịch. Theo tục lệ, dân làng chọn cử một cụ cao niên, làm lễ tế Thần Nông tại đàn xây trên khu ruộng Tịch điền, lễ vật gồm ván xôi gà, trầu cau, vài bó mạ, cây nêu cao. Sau khi tế lễ xong thì làm lễ xuống đồng. Ông chủ tế kiêm chủ điền lúc này đóng vai tượng trưng cho Vua Hùng cùng các quan viên, hội đồng kỳ mục và đông đảo bà con dân làng ra ruộng cấy lúa. Một người cầm hương, một người cầm mạ, một người cầm lọng che cho chủ tế. Ông chủ tế xắn quần, áo tế rồi cầm mạ lội xuống ruộng, cấy xong bó mạ thì lên bờ. Dân làng cùng nhau ùa xuống cấy tiếp trong không khí náo nhiệt, vui vẻ với mong muốn người người thạo việc, mùa màng bội thu, đông đàn dài lũ, người người no đủ. Cấy xong thửa ruộng, dân làng cùng ông chủ tế làm lễ tạ Thần Nông rồi cùng các quan viên, kỳ mục, bô lão trong làng về đền làm lễ tạ thành hoàng.
Ở Kẻ Thiệc (tức xã Hà Thạch, huyện Lâm Thao ngày nay) lễ hạ điền được tổ chức vào ngày mồng 1 tháng 6 âm lịch. Ông chúa đồng cấy xong lại cắm thêm mấy mầm khoai môn. Ở xã Thụy Vân (thành phố Việt Trì), lễ hạ điền được tổ chức vào ngày 15 tháng 6 âm lịch. Chúa điền lo 100 miếng trầu cau, đồng thời mỗi giáp phải sửa một ván xôi gà đem ra đình. Chúa điền làm lễ cúng thần linh trong đình rồi mới xuống ruộng cắm một cây nêu và cấy từ 8 đến 12 khóm lúa quanh cây nêu. Một nghi thức không thể bỏ qua trong các lễ hội trên là trước lúc Chúa đồng xuống đồng cấy mở đầu thời vụ thì phải làm lễ cúng Thần Nông.
Tục rước lúa thần trong Lễ hội Trò Trám, xã Tứ Xã (tên nôm là Kẻ Gáp), huyện Lâm Thao, vào sáng ngày 12 tháng Giêng, dân làng tổ chức rước “lúa thần” và diễn trò trình nghề Tứ dân chi nghiệp. “Lúa thần” là một khóm lúa bông dài, hạt mẩy, chủ tế chọn từ vụ mùa năm trước, đến Tết thêm một cây mía đủ ngọn. Cả khóm lúa và cây mía tượng trưng cây lúa thần. Đám rước đi quanh làng, về miếu Trám, khóm “lúa thần” được đặt lên bàn thờ và phường Trám diễn trò trình nghề. Ở xã Thanh Đình, thành phố Việt Trì tổ chức lễ cầu mùa với tục hèm độc đáo rước ông Khiu, bà Khiu ở xã Thanh Đình vào ngày mồng 4 tháng Giêng. Kiệu rước ông Khiu, bà Khiu, trên kiệu để cỏ de (một loại cỏ, lá giống lá lúa) buộc lẫn bó lúa tẻ, lúa nếp và một ít hạt ngô, đậu, khoai sọ và một cái bánh chưng tày dài bằng cẳng tay. Sau khi chủ tế thực hiện nghi lễ ở Gò tế thánh (cánh đồng Ghệ), ông Khiu bưng mâm lúa và ngũ cốc, bà Khiu cầm chiếc bánh chưng tung xuống sân cho dân làng cướp lấy khước.
Trò “Chạy tùng dí” là trò múa phong tục - nghi lễ do hai thôn Vi Cương và Triệu Phú (thị trấn Hùng Sơn) cùng cử hành chung. Từ vụ mùa năm trước, ông chủ tế phải chọn những bông lúa nếp tốt, hạt to và chắc, bó thành 12 bó (bằng gồi lúa). Đến ngày đầu tháng Giêng, sáng ngày mồng 7, sau khi tế lễ xong, chủ tế tay cầm một cây mía tốt đứng ở giữa sân đình, 6 thanh niên, mỗi người mang một đòn gánh sơn son thếp vàng, mỗi đầu đòn buộc hai nắm lúa con và hai nắm xôi gói lá dong, chia làm hai nhóm vừa chạy vòng quanh sân đình 3 vòng, vừa reo “Hú tùng dí, hú tùng dí”. Múa xong ba vòng thì chủ tế tung lúa và xôi cho mọi người cùng cướp. Trò này nhằm cầu khấn “thóc lúa đề đa”, mùa màng bội thu. (Cổ xưa, trò này vốn biểu hiện tín ngưỡng phồn thực, nhưng rồi, dân làng vẫn gắn trò diễn phong tục - nghi lễ này với truyền thuyết Sơn Tinh đưa vợ về núi Tản). Trò diễn Rước Chúa Gái trong Lễ hội làng He (thị trấn Hùng Sơn, huyện Lâm Thao) song song với nghi thức rước bông lúa và trình nghề - những nghề của xã hội tiểu nông cổ truyền, có thể thấy rõ ràng vía lúa thuộc về âm tính - nguồn gốc của sự sinh sôi - hiện thân thành Chúa Gái. Ở đây, Chúa Gái đã được truyền thuyết hóa chính là vía lúa đã chủ trì đám rước nghề nông của xã hội nông nghiệp cổ sơ. Như vậy, lễ khấn vía lúa (rước tiếng hú), rước vía lúa (rước Chúa Gái) và rước lúa - xôi (hú tùng dí) là một tiến trình của sự phát triển cây lúa cùng với kết quả tốt đẹp của quá trình lao động ấy là được mùa.
Qua các lễ thức trong các lễ hội cho thấy tục thờ lúa trong các lễ hội truyền thống luôn gợi nhớ truyền thuyết về vua Hùng, hoặc ngược lại, chính truyền thuyết về vua Hùng cấy lúa tạo nên nghi thức của lễ hạ điền. Như vậy, nghi lễ thờ hạt Lúa thần trên đền Thượng - Kính Thiên lĩnh điện ở Đền Hùng chính là sản phẩm đặc trưng của những tập tục tín ngưỡng nông nghiệp lúa nước được gắn với không gian văn hóa Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương thời dựng nước, thông qua những câu chuyện tái hiện việc vua Hùng dạy dân cấy lúa, mang lại cho dân đời sống ấm no.
Tục thờ Lúa trong các lễ hội dân gian gắn với Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương chính là sự nghiêm cẩn của tập tục, sự trân trọng trong tâm thức và hành vi (mang tính thiêng hướng về một không gian thiêng) cùng thái độ ngưỡng vọng, tri ân sâu sắc, đậm bản sắc văn hóa của cư dân lúa nước vùng Phong Châu đối với các Vua Hùng, những người có công khai sinh ra quốc gia Văn Lang, góp phần tạo nên giá trị văn hóa độc đáo của Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương.