ĐÌNH NGOẠI LÂU THƯỢNG
Cập nhật ngày: 12/12/2022 15:39
Từ trước tới nay Đình này vẫn gọi là Đình Ngoại thuộc thôn Ngoại xã Lâu Thượng, trước kia xã Lâu Thượng gọi là Kẻ Sủ huyện Phù Khang, tỉnh Sơn Tây; sau Kẻ Sủ đổi là Ngọc Vũ và chia thành 2 thôn là thôn Nội và thôn Ngoại; đến thời Pháp thuộc gọi là xã Lâu Thượng, huyện Hạc Trì, tỉnh Phú Thọ; sau các mạng tháng 8 năm 1945 Ngọc Vũ Ngoại thôn sáp nhập với 6 thôn; thôn Hương, thôn Nội, thôn Đông, thôn Nam, thôn Thượng, thôn Hạ lấy tên là xã Trưng Vương.

Năm 1954 xã Trưng Vương chia ra làm nhiều xã thì 2 thôn Nội và thôn Ngoại lại lập thành một xã gọi là xã Lâu Thượng - huyện Hạc Trì - tỉnh Phú Thọ, đến nay là thôn Lâu thượng, xã Trưng Vương, thành phố Việt Trì - tỉnh Phú Thọ, hiện  nay nhân dân vẫn gọi là Đình Lâu Thượng, hay Đình Ngoại

Đình Ngoại Lâu Thượng làm trên một quả đồi thấp thuộc xóm Mai xã Lâu Thượng ( nay là Khu 3, xã Trưng Vương). Theo các cụ kể lại Đình Lâu Thượng nằm trên  tai ngai, một bên là xóm Mai, một bên là đồi Lôi Kết, Đình trông về hướng Nam, xung quanh có xóm làng đông đúc, có sơn có thủy thật là  một nơi phong cảnh đẹp đẽ, mát mẻ hữu tình; trước đình ngày trước là vườn cây Bác Hồ ( hiện nay là khuôn viên nghĩa trang nhân dân Đồi Đình Lâu Thượng), sau đình là Miếu Vật. Bên phải đình là trường cấp I, bên trái là đường Nguyễn Văn Linh con đường giao thông liên xã, phía đông Đình cách sông Lô khoảng 1km, phía Bắc cách trung tâm thành phố Việt Trì khoảng 3km.

I. LỊCH SỬ XÂY DỰNG.

          Trước đây khi xã Lâu Thượng còn gọi là Kẻ Sủ thì chỉ có một Đình gọi là Đình Rỡ; Kẻ Sủ gặp nhiều phúc lộc sinh sôi nảy nở, con cháu ngày một đông, nên dân chia làm hai thôn gọi là Ngọc Vũ nội thôn và Ngọc Vũ ngoại thôn. Đồng thời cũng chia đình Rỡ làm hai, khi chia đình thôn Ngoại ở gần lấy được nhiều hơn, thôn Nội chỉ lấy được một nồi hương. Sau đó hai thôn kiện nhau; Quan xét thôn Nội làm anh vì lấy được nồi hương là đồ thờ chính trong Đình, vì vậy khu vực Lâu Thượng xã Trưng Vương ngày nay có hai đình là đình Nội Lâu Thượng và đình Ngoại Lâu Thượng.

Đình Ngoại Lâu Thượng làm từ lâu xong rất tiếc không có niên hiệu xây dựng, không có bia ký, bút tích mà chỉ theo các cụ nhiều tuổi trong làng kể lại rằng; Người thợ mộc đến đây làm đình lấy vợ sinh con, ăn mít và trồng hột, khi cây mít ra quả đình mới làm xong, đến nay chỉ thấy Đình ghi lại một số lần tu sửa.

          1. Một lần ở gian hậu cung trên Dạ thượng lương có ghi “ Tuế thứ Quý Sửu niên thập nguyệt Quý Hợi, tứ nhật Canh Ngọ thời Lý tác cát vượng”;  Hai cột giữa hậu cung ghi “Quý Mão niên Lý tác nội điện thượng hạ tứ vi tứ giáp Đồng Tư hầu”. Như vậy năm Quý Sửu, năm Quý Mão ở hậu cung có tu sửa xung quanh, trên dưới, nhưng không ghi rõ năm Quý Sửu, Quý Mão nào.

          2. Một lần, trên dạ Thượng lương ghi “Tuế thứ Nhâm Tý bát nguyệt lục nhật khởi công tu lý” tức là ngày mồng 6 tháng 8 năm Nhâm Tý khởi công tu sửa, xong cũng chỉ biết ngày tháng tu sửa, không ghi rõ năm Nhâm Tý nào, tu sửa những gì.

          3. Một lần, năm 1936 cụ Lưu Văn Chương đứng ra chữa lát gạch trong môn đình, thay 8 bức trạm, dưới dạ câu đầu bằng 8 con Nghê lấy ở đình ra thay một số hoành, rui, xây tường xung quanh đình, đảo lại ngói.

          4. Một lần, năm 1967 Ủy ban hành chính xã cùng các cụ phụ lão đã cho đảo lại ngói, thay 4 kệ phía trước đình, thay một hoành, dui, xây bức trước cửa, làm lại một số cánh cửa, làm cửa sổ có song sắt, xây sân khấu một gian mé tay trái.

Về sau này Đình Ngoại Lâu thượng đã được hạ giải và tu bổ, tôn tạo sủa vào năm 1992 và giai đoạn I năm 2007 với chất liệu chủ yếu gỗ, gạch, ngói, đá. Tổng diện tích khuôn viên Đình là 7097,3m2 bao gồm 03 gian đại bái, 01 hậu cung, 01 miếu, cột gỗ mái lợp ngói âm.

          Như vậy đình Lâu Thượng không có bia ký và bút tích chính xác để xác định niên hiệu xây dựng và những lần tu sửa.

          Tuy vậy qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu mặc dù đình đã trải qua những năm tháng chống chọi với phong ba bão táp, với những cuộc kháng chiến trường kỳ, nên đã bị hư hỏng vì chiến tranh, bị dột nát vì thiên nhiên, bị thay đổi do nhiều lần tu sửa, xong nhìn về cách cấu trúc ngôi đình và nghệ thuật điêu khắc trạm trổ, có thể nhận thấy đây là ngôi đình được làm vào thời Hậu Lê, và đã tu sửa nhiều lần.

II. NGHỆ THUẬT, KIẾN TRÚC NGÔI ĐÌNH.

          Đình Lâu Thượng là một ngôi đình kiến trúc đồ sộ, làm theo kiểu chữ Đinh ( J ), nằm trên khu đất cao, rộng bằng phẳng. Từ ngoài nhìn vào ta thấy các đầu đao vút lên thanh thoát, nếp bờ giải là những con rồng nằm vươn theo đầu đao, dưới chân những cụm mây mền mại, những con thú, con giống bằng đất nung hiên ngang, vững chãi hàng trăm năm không hề lay chuyển. Trên bờ nóc là hai con rồng cuốn đuôi tôm cong lên hướng trầu mặt nguyệt.

          Ngôi đình gồm 5 gian, chiều dài 28m, chiều rộng kể cả hậu cung 22m, được kết cấu bằng 60 chiếc cột với đường kính, kích cỡ khác nhau, các xà ngang, dọc ăn mộng với nhau tạo thành một bộ khung bền chắc và được khoác lên mình một chiếc áo gồm những viên ngói mũi hài rất đẹp.

          Đình được kiến trúc theo kiểu trồng cồn, các bẩy được vén thân mây hình đao, các đầu kẻ đục những con nghê (kim) khỏe mạnh xung quanh tứ trụ đều có trạm trổ cảnh sinh hoạt, 8 dạ câu đầu có 8 con nghê. Toàn bộ ngôi đình được bố cục rất chặt chẽ, nổi lên cho ta thấy đây là một công trình nghệ thuật trạm trổ rất công phu.

Hiện nay trong đình còn một số di vật phụ.

          - Bức đại tự ghi:     Thánh cung vạn tuế

          - Hai câu đối ghi:   Ức niên hách dịch anh linh địa

                                        Vạn thế y quan lễ nhạc thiên(2)

          Dịch nghĩa: Đất anh linh hách dịch ức năm

                              Trời lễ nhạc y quan muôn thủa.

Bên trong Đình còn có 02 tượng gỗ, 03 bộ kiệu, bộ bát bửu chấp kích, 01 trống cái, 03 chiêng, 01 chuông đồng, 01 mõ cá gỗ, 06 lọng, cờ, tàn tán, 114 bộ trang phục trung nam, 01 hương án, 01 lư hương, đôi lọ lục bình, nhiều lọ bình hoa các loại cùng với bát hương, đồ thờ tự, hoành phi câu đối, ngai rất có giá trị về văn hóa và lịch sử.

Đình Ngoại Lâu Thượng đã được xếp hạng là Di tích lịch sử cấp Quốc gia theo Quyết định số 29/QĐ - VH ngày 21/02/1975.

          Cạnh đình Lâu Thượng còn ngôi Miếu Vật, đó là nơi thờ chính các vị thần, trước đây hàng năm tế lễ cầu cúng đều tiến hành ở Miếu Vật, còn Đình chỉ là nơi để sắc phong và ăn uống, sau đó đình mới thờ Tứ vị đại vương.

Đình Lâu Thượng thờ Tứ vị đại vương gồm: Cao Sơn Quý Minh Đại vương, Trưng Trắc, Trưng Nhị, Thành hoàng làng Tiên sinh Lý Hồng Liên.

Theo lịch sử kể lại, Cao sơn Quý Minh Đại Vương (Sơn Tinh) chăm lo bảo vệ cho dân khỏi lũ lụt, thiên tai, Nhị vị Đại Vương Hai Bà Trưng tụ quân khởi nghĩa chống giặc ngoại xâm tại đây, và Thành hoàng Lý Hồng Liên là người dạy học cho dân làng.

          Theo sự tích còn lại thì sự tích các vị thần được ghi:

          1 - Sự tích thờ Tản viên:

Năm ấy là năm Kỷ Mùi, Thục vương là Phủ  đạo Ai Lao, biết được vua nhường ngôi cho con rể ngầm mang quân sang đánh, lúc ấy Sơn Tinh xin đi đánh giặc cứu nước, vua mừng quá trao nỏ thần cho Tản Viên, Tản Viên lạy từ lĩnh mệnh ra đi, người đời sau có câu vịnh Tản Viên:

                    Phiên âm:    Chính bái đường đường xuất ngọc quân

                                        Tam quân như nhất một hòa đoàn

                                        Mã đồ khăn sử phong khinh lực

                                        Hổ tướng dịu hiền tuyết sầu nhan

                                        Thiên lý kỳ khu thiên lý mộng

                                        Nhất trùng ly biệt nhất trùng sinh

                                        Kiếm cung từ cố anh hùng sự

                                        Đảm liễn gian nan bất tiếc hàn.

 

                    Dịch:           Cờ kéo đàng hoàng ra cửa ngọc

                                        Ba quân như một bút khôn tả

                                        Chân ngựa làm cho sức gió nhẹ

                                        Chướng hổ nào hiện mặt tuyết gầy

                                        Dong duổi nghìn dặm mộng nghìn dặm

                                        Ly biệt một lần mãi một lần      

                                        Gươm giáo từ cổ việc anh hùng

                                        Gánh hết gian nan chẳng ngại hàn

          Đánh giặc xong Tản Viên kéo quân về, vua phong cho làm “Phủ khiển sứ đẳng thần” người đời sau có câu thơ:       

                    Phiên âm:    Quả nhiên xích kiếm tồn man khấn

                                        Ước hả liên thanh hiến quốc quân

                                        Thiên cổ di nhiên thiên cổ hậu

                                        Gia nhi tử nhã quốc nhi thần.

                    Dịch:           Cầm gươm quả đã trừ man khấn

                                        Đem cả thanh liên dâng quốc quân

                                        Nghìn đời về trước nghìn đời sau

                                        Nhà thì làm con nước làm tôi.

          Ngày ấy 20/5 Vua làm tiệc triệu Thánh vương về cung Lâu để nhường ngôi vua cho Tản Viên thay vua trị nước, Sơn thánh tạm theo mệnh. Vua bèn đi về núi Nghĩa Lĩnh, sau đấy vài ngày Sơn thánh can vua: “Nhà Hùng làm vua đã lâu ông trời có hạn cho nên sai Thục Vương đến chiếm, Thục Vương cũng là phái tiền hoàng đế bộ Ai Lao, vua tiếc gì một phương cõi Nam mà cưỡng ý trời, bệ hạ cùng tôi có thuật thần tiên chẳng gì bằng lên bồng hồ lãng ngân, tiêu giao cho lòng bất lão… Chí ấy rất cao, Vua nghe lời ngày hôm ấy vua Hùng sai đưa thư mời Thục Vương đến để nhường ngôi và trao nỏ thần. Sau đấy vua cùng về núi Nghĩa Lĩnh ước cùng Sơn Thánh hóa sinh bất tử diệt. Mọi người làm lễ tạ trước Sơn thánh, sinh thánh hiệu, Sơn thánh cho thánh hiệu “Tản viên Sơn thánh Quý Minh đại vương”, từ đó nhân dân Trưng Vương thờ ngài, người có công đánh giặc giữ nước.

2- Truyền thuyết thờ Hai Bà Trưng:

Năm ấy Tô Định mang quân sang đánh chiếm cõi Nam, trăm họ đau thương không ai cứu vớt, lúc ấy Hai Bà lánh nạn ở Hoan Châu, sau về thành cũ Phong Châu, Hai bà đến qui phật ở chùa Bối Linh, xã Trưng Vương ngày nay, lúc ấy Tô Định vẫn tham tàn, nhân dân lầm than, Hai bà vốn dòng dõi vua Hùng nhân lúc nước gặp nạn liền chiêu binh khởi nghĩa. Trưng Vương sắc cho em gái chiêu dụ nữ tài, chẳng bao lâu đã chiêu dụ được 60 nghìn người. Thánh bà làm lễ ở Đền Sơn thánh và Chùa, bái yết song mổ trâu bò khao quân, hội quân ở sông Hát Môn, ngày hôm ấy đánh một trận rất dữ, quân Tô Định thua tan, 65 thành trì về cõi Nam bang. Trưng Vương lên làm vua, phong cho em gái là “Bình Khôi công chúa”, tưởng nhớ công ơn người nữ anh hùng dân tộc, nhân dân xã Trưng Vương lập Miếu thờ để kỷ niệm nơi trú ngụ và xuất quân tại đây, cùng với Sơn thánh phối cảnh hương hoa vạn niên trường lưu.

3 - Truyền thuyết thờ Thổ thần: (Tiên sinh dạy học)

          Đời Lê Trung Tôn 1549-1556 có một tiên sinh họ là Lý, húy là Hồng Liên, làm quan to ở triều đình, sau đó xin lánh nạn ở xã Trưng Vương ngày nay, dạy học ở đây được ba đời. Ngày ấy tiết Xuân tiên sinh cùng môn đệ đồng tử đi vãn cảnh, bèn đến một địa điểm hình con rùa đang uống nước. Thiên mã cư nam ngồi hóng mát, chợt thấy gió mưa nổi lên tiên sinh đưa học trò về, sau đó ngài ngồi ở đây thấy hai con chim xanh bay đến đậu trước mặt, ngài vịnh hai bài thơ:

          Bài 1: Phiên âm    

                              Nhất phong chiêu mã điểu phi lai

                              Nam tư canh danh thường thế sự

                              Ý dục chiêu ngộ thưởng đế đài

                              Dục lai hội thi nữ anh tài.

 

          Dịch:           Hai chim thiên sứ vừa bay đến

                              Ý muốn mời ta lên đế đài

                              Coi thường công danh là nam tử

                              Muốn lên hội thi nữ anh tài.

 

          Bài 2 phiên âm:

                              Hùng triều tôn diệp bách niên chi

                              Duy hữu anh hùng hữu nữ nhi

                              Vân tướng y thường hoa tướng mạo

                              Nguyệt vi phủ viết diện vi kỳ

          Dịch:           Cháu gái Hùng vương cành trăm năm

                              Chỉ có anh hùng là nữ nhi

                              Mây giống áo quần hoa giống mặt

                              Giăng làm dìu bước diện làm cờ.

 

          Và tiên sinh dự đoán rằng: Thiên đình muốn đòi mình về, tiên sinh xuống tắm ở hồ cổ trước đền rồi lên ngồi cạnh con sư trước đình tự nhiên mà hóa, học sinh tìm gọi, nhân dân ra thì mối đã đắp thành mả, được mấy ngày sau lục súc chết nhiều, dân ốm đau, khi đó 3 họ Nguyễn, Đinh, Trương đều mộng thấy, ngài bảo “ Lập miếu thờ thì sẽ tai qua nạn khỏi”  sau đó dân lập miếu thờ từ đó dân được yên.

          Đó là những truyền thuyết về 4 vị thần được thờ, tóm lại đình này được thờ mấy vị thần chủ yếu là thờ những người có công đánh giặc cữu nước như Tản Viên sơn thánh, Hai Bà Trưng, ngoài ra còn thờ Thành hoàng.

 

III - PHONG TỤC, HỘI HÈ, TẾ LỄ

 

          Trước kia 1 năm có 8 ngày tiệc:

          - Ngày mùng 1 tháng Giêng là ngày sinh Sơn thánh, chính lễ bánh chay, 3 bàn thịt lợn đen.

          - Ngày 15 tháng 5 Sơn thánh hóa thân bạch nhật thăng thiên.

          - Ngày 15 tháng 8 ngày sinh Đức thánh bà, chính lễ 2 bàn thịt lợn đen.

          - Ngày 3 tháng 12 ngày sinh Nhị thánh bà, chính lễ thịt lợn đen.

          - Ngày 18 tháng 3 ngày sinh Thành hoàng làng, chính lễ thịt gà, lợn.

          - Ngày 10 tháng 5 Thành hoàng hóa thân  các màu vàng, đen tím đều kiêng kị.

          - Ngày 10 tháng 10 Thánh bà hóa thân, chính lễ cổ lợn, bò, tiệc sinh hóa quần áo, chuông sắc vàng.

          - Ngày 15 tháng 9 hóa thân Thánh bà, chính lễ thịt lợn đen, oản quả, quần áo chuông sắc đen, sắc tía.

          Trong 8 ngày tiệc, có tiệc khai Xuân mở đầu là tiệc lớn nhất. Tối 2, ba phiên kỳ mục ăn uống nhà Chủ tế, đến gà gáy khoảng 1 giờ sáng dong trống mở cờ rước Chủ tế ra đình, 2 ông từ của 2 đình đứng 2 bên, Ông Chủ tế(1) đứng giữa, cửa mở 2 ông Từ vào thắp hương, ông nào thắp được trước thì năm ấy dân trong thôn làm ăn thịnh vượng hơn.

          Sáng hôm sau làm lễ khai Xuân, 8 giáp 8 con gà trống thiến, xôi, thịt lợn đen, tế xong thôn nào thôn ấy ăn. Từ mùng 4 đến mùng 9 các kỳ hào 3 phiên ăn uống ở nhà Chủ tế.

 Đến sáng mùng 9 dân 2 thôn cùng rước Chủ tế ra Miếu Vật, đem thần sắc ra đọc và trao lượt cho dân Đình kia giữ.

Ngày mùng 10 dân 2 thôn tế chung ở Miếu Vật, có các trò chơi như chọi gà, cờ bỏi, hát cô đầu, đánh đu tiên, đánh vật, các phường vật ở nơi khác đến thi đấu, ai được thì được thưởng 1 khăn lụa và 1 quan tiền, ai thua thì phải đứng đấy bị người khác đấu.

 Đến ngày 11 dân nào có Chủ tế thì được rước sắc vào kiệu, dân nào không có chủ tế thì phải đi đưa cùng rước sắc vào đình, xong đâu đấy lại rước Chủ tế về nhà và rước kiệu về đình. Ngày nay các ngày tiệc, tế lễ, các trò chơi không còn chỉ có hàng năm đến ngày mùng 10 tháng Giêng tổ chức tiệc làng; hiện nay từ năm 2011đã và đang định kỳ 3 năm một lần khôi phục tổ chức lễ hội đình làng Lâu Thượng trong đó có tổ chức rước kiệu và đấu vật, chọi gà, tổ chức các trò chơi dân gian tại di tích./.

Các tin khác:
ĐÌNH THÉT (16/12/2022 08:59)
ĐÌNH LÀNG THƯỢNG (16/12/2022 08:54)
ĐÌNH LÀNG HẠ (16/12/2022 07:51)
Tìm kiếm:  
  CHIẾN LƯỢC - QUY HOẠCH
Kế hoạch phát triển vật liệu xây dựng tỉnh Phú Thọ thời kỳ 2021 - 2030, định hướng đến năm 2050
Ngày 30/12/2022, UBND tỉnh ban hành Quyết định số 3602/QĐ-UBND về việc phê duyệt Kế hoạch phát triển vật liệu xây dựng tỉnh Phú Thọ thời kỳ 2021 - 2030, định hướng đến năm 2050.
  Người phát ngôn báo chí
DANH SÁCH NGƯỜI PHÁT NGÔN, CUNG CẤP THÔNG TIN CHO BÁO CHÍ CỦA UBND THÀNH PHỐ VÀ CÁC PHƯỜNG, XÃ
DANH SÁCH NGƯỜI PHÁT NGÔN, CUNG CẤP THÔNG TIN CHO BÁO CHÍ CỦA UBND THÀNH PHỐ VÀ CÁC PHƯỜNG, XÃ
  Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,phong cách Hồ Chí Minh
Học Bác ở tinh thần nêu gương
Năm 1947, Đảng bộ và nhân dân xã Chu Hóa, thành phố Việt Trì vinh dự và tự hào khi được Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn làm nơi ở, làm việc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Đó là dấu son tiếp thêm động lực cho địa phương trong chặng...
  Văn minh Đô thị
Bạch Hạc tổ chức Hội thi tuyên truyền thực hiện Quy chế quản lý đô thị thành phố năm 2024
Ngày 09/8, tại phường Bạch Hạc đã diễn ra Hội thi tuyên truyền thực hiện Quy chế quản lý đô thị thành phố năm 2024. Tới dự có các đồng chí lãnh đạo Hội Cựu chiến binh; Hội LHPN Thành phố; Phòng Quản lý đô thị Thành phố; Thành Đoàn Việt...