Cập nhật ngày: 13/09/2018 08:24
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Số: 2691 /QĐ-UBND Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Việt Trì, ngày 31 tháng 8 năm 2018
QUYẾT ĐỊNH
Về việc giải quyết khiếu nại của ông Đỗ Vỵ khu 9, phường Nông Trang,
thành phố Việt Trì (lần hai)
CHỦ TỊCH ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ
Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 19/6/2015;
Căn cứ Luật đất đai ngày 29/11/2013;
Căn cứ Luật Khiếu nại ngày 11/11/2011;
Căn cứ Nghị định 75/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Khiếu nại;
Căn cứ Thông tư số 07/2013/TT-TTCP ngày 31/10/2013 của Thanh tra Chính phủ quy định trình tự giải quyết khiếu nại hành chính;
Xét nội dung khiếu nại ông Đỗ Vỵ, khu 9, phường Nông Trang, thành phố Việt Trì;
Xét Báo cáo số /BC-TXM ngày 28/8/2018 của Tổ xác minh (được thành lập theo Quyết định số 1566/QĐ-UBND ngày 06/6/2018 của Chủ tịch UBND Thành phố) về việc Báo cáo kết quả xác minh nội dung đơn khiếu nại của ông Đỗ Vỵ, khu 9, phường Nông Trang, thành phố Việt Trì.
I. Nội dung khiếu nại:
Thực hiện Bản án số 47/2012/QĐST-KDS Ngày 04/12/2012 của Tòa án nhân thành phố Việt Trì về việc công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Trong đó thể hiện, ông Đỗ Hùng Vương và bà Nguyễn Thị Hồng có nghĩa vụ thanh toán nợ cho Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng số tiền gốc là 275.000.000 đồng và tiền lãi tính đến ngày 28/11/2012 là 82.925.534 đồng. Tổng cộng cả gốc và lãi là 357.925.534 đồng (Ba trăm năm bảy triệu, chín trăm hai lăm lăm nghìn, năm trăm ba mươi tư đồng) thời hạn thanh toán vào ngày 30/01/2013. Sau thời gian trên, ông Vương, bà Hồng không thanh toán được thì ông Nguyễn Hồng Đào và bà Đỗ Thị Hồng Lê có trách nhiệm trả thay cho ông Vương, bà Hồng. Việc kê biên tài sản ngày 25/4/2013 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Việt Trì để thi hành án gồm: 01 ô đất có diện tích 68,8 m2 thuộc thửa đất số 259-1, tờ bản đồ 36, được UBND thành phố Việt Trì cấp GCNQSD đất số AN 134724 ngày 07/7/2008 đứng tên bà Đỗ Thị Hồng Lê và ông Nguyễn Hồng Đào tại tổ 5, khu 9, phường Nông Trang. Trên đất có công trình xây dựng tạm. Bên cạnh đó, ngoài GCNQSD đất có 01 công trình tạm do ông Đỗ Vỵ xây dựng trên đất hành lang giao thông (kích thước sâu 6,3m; rộng 4,5m).
Tháng 9/2015, Công ty Cổ phần dịch vụ đấu giá Việt Nam tổ chức phiên bán đấu giá tài sản thi hành án của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Việt Trì. Tài sản bán đấu giá: Quyền sử dụng đất theo giấy CNQSD đất số AN 134724 do UBND thành phố Việt Trì cấp ngày 07/7/2008, mang tên hộ bà Đỗ Thị Hồng Lê và ông Nguyễn Hồng Đào thuộc thửa đất số 256-1 , tờ bản đồ 36, diện tích 68,8m2 và tài sản gắn liền trên đất, địa chỉ thửa đất tại khu 1B (nay là tổ 5, khu 9), phường Nông Trang, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Tại phiên đấu giá này ông Nguyễn Quang Trung, trú tại thị trấn Thanh Thủy, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ đã trúng đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất (tại Hợp đồng mua bán tài sản số 55/HĐBĐG-VAS.PT ngày 25/6/2013 để lập Hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá số 55/43/2013/HĐMB-VAS.PT) theo GCNQSD đất số AN 134724 do UBND thành phốViệt Trì cấp ngày 07/7/2008 mang tên hộ bà Đỗ Thị Hồng Lê và ông Nguyễn Hồng Đào, thuộc thửa đất số 259-1, tờ bản đồ 36, diện tích 68,8 m2 tại khu 1B (nay là tổ 5, khu 9), phường Nông Trang. Ông Trung trúng đấu giá tài sản là: 416.275.027 đồng (Bốn trăm, mười sáu triệu, hai trăm bảy lăm nghìn, không trăm hai mươi bảy đồng).
Chi cục Thi hành án Việt Trì đã đề nghị UBND phường thông báo cho ông Vỵ, bà Đào tự tháo dỡ quán tạm trên phạm vi đất hành lang. Nếu ông bà không tháo dỡ, đề nghị UBND phường ra Quyết định cưỡng chế buộc ông Vỵ, bà Đào tháo dỡ trả lại mặt bằng và lối đi cho người trúng đấu giá.
Để thực hiện các nội dung trên, UBND phường Nông Trang đã thực hiện tuyên truyền vận động, ban hành thông báo yêu cầu tháo dỡ công trình trên đất, lập biên bản vi phạm hành chính yêu cầu chủ hộ tháo dỡ… nhưng chủ hộ không đồng ý và có đơn đề nghị được giải quyết việc hợp thức đất đai phía trước lối vào thửa đất trúng đấu giá.
Ngày 18/10/2017, UBND phường Nông Trang lập Biên bản cưỡng chế tháo dỡ công trình vi phạm đối với hộ ông Đỗ Vỵ và tổ chức cưỡng chế theo quy định và Chi cục thi hành án dân sự đã bàn giao tài sản trúng đấu giá cho ông Nguyễn Quang Trung quản lý, sử dụng.
Không đồng ý việc cưỡng chế tháo dỡ, ông Vỵ có đơn khiếu nại tới UBND phường Nông Trang với nội dung:
- Khiếu nại việc UBND phường Nông Trang cưỡng chế thu hồi đất, tháo dỡ tài sản trên đất của gia đình ông trái pháp luật.
- Không đồng ý với nội dung văn bản trả lời số 387/UBND-ĐC.XD ngày 28/12/2017 của UBND phường về việc trả lời đơn ông Đỗ Vỵ, thường trú tổ 5, khu 9, phường Nông Trang.
2. Kết quả giải quyết của Chủ tịch UBND phường Nông Trang:
Căn cứ các hồ sơ, tài liệu liên quan do chủ hộ cung cấp, hồ sơ lưu trữ tại phường Nông Trang, Bản án số 47/2012/QĐST-KDS ngày 4/12/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, Quyết định số 66/QĐ-CCTHA ngày 15/3/2013 của Chi cục thi ành án dân sự thành phố Việt Trì và các quy định của pháp luật, Chủ tịch UBND phường Nông Trang đã ban hành Quyết định số 32/QĐ-UBND ngày 11/4/2018 về việc giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND phường Nông Trang (lần đầu) như sau:
“ Không chấp nhận nội dung đơn khiếu nại của ông Đỗ Vỵ do nội dung khiếu nại không có cơ sở giải quyết”.
Không đồng ý với kết quả giải quyết khiếu nại của UBND phường Nông Trang ông Vỵ tiếp tục có đơn gửi Chủ tịch UBND Thành phố đề nghị giải quyết khiếu nại lần 2.
3. Kết quả kiểm tra xác minh:
3.1. Nguồn gốc thửa đất
Hộ ông Đỗ Vỵ được UBND Thành phố giao đất hợp thức theo Quyết định số 910/QĐ-UB ngày 24/11/1993, diện tích 200m2 (ô số 14) tại khu vực Đồi Mẻ Quàng, phường Nông Trang.
Ngày 22/6/1995 UBND Thành phố giao đất tại thực địa cho hộ ông Đỗ Vỵ theo biên bản cắm đất số 4438/95BB diện tích 198m2.
Sau khi được giao đất chính thức hộ ông Đỗ Vỵ có xây nhà ở trên đất và đến năm 2000 thì chuyển nhượng một phần đất là 68,8m2 cho hộ ông Phạm Ngọc Thụ, hộ ông Phạm Ngọc Thụ sau đó chuyển nhượng cho ông Nguyễn Trọng Bình và bà Nguyễn Thị Nhàn. Năm 2008 ông Bình bà Nhàn chuyển nhượng lại cho bà Đỗ Thị Hồng Lê (con gái ông Đỗ Vỵ) và ông Nguyễn Hồng Đào.
3.2. Kiểm tra biên bản giao đất cho hộ ông Đỗ Vỵ và hồ sơ cấp giấy CNQSD đất cho hộ bà Đỗ Thị Hồng Lê:
- Tại biên bản cắm đất số 4438/95BB ngày 22/6/1995 của UBND Thành phố giao đất tại thực địa cho hộ ông Đỗ Vỵ có ghi rõ: Phía Đông giáp ô số 13 ( hiện nay là nhà ông bà Đường - Hân); phía Tây giáp đường 3 m, phía Nam giáp đường 3,5m, phía Bắc giáp đường 26 m (quy hoạch đường Hòa Phong kéo dài). Diện tích ô đất (17,5m+18,5m)/2 x 11m = 198 m2
- Kiểm tra Hồ sơ chuyển nhượng Quyền sử dụng đất từ ông, bà Nguyễn Trọng Bình, Nguyễn Thị Nhàn cho ông, bà Nguyễn Hồng Đào- Đỗ Thị Hồng Lê ngày 13/5/2008 gồm có Biên bản kiểm tra hiện trạng sử dụng đất và trích lục bản đồ lập ngày 13/5/2008 thể hiện thửa đất có giáp ranh phía trước là đường giao thông (rộng mặt cắt 26m), phía sau là tả ly, phía trái là hộ ông Đỗ Vỵ, phía phải là hộ ông Đường - Hân. Hộ ông Đỗ Vỵ ký vào hồ sơ và công nhận hiện trạng sử dụng đất và trích lục hồ sơ ngày 13/5/2008.
Như vậy, trong biên bản cắm đất và hồ sơ cấp giấy CNQSD đất của bà Đỗ Thị Hồng Lê cùng thể hiện phía trước thửa đất là đường giao thông rộng 26m.
3.3. Kiểm tra hiện trạng đất hộ ông Đỗ Vỵ (bao gồm cả thửa đất của hộ ông Nguyễn Quang Trung trúng đấu giá):
Ngày 24/8/2018 Tổ xác minh phối hợp cùng UBND phường Nông Trang và Chủ hộ kiểm tra hiện trạng sử dụng đất của hộ ông Đỗ Vỵ, kết quả như sau:
Thửa đất của ông Đỗ Vỵ hiện nay có 3 mặt giáp với đường giao thông, như biên bản giao đất năm 1995 có tổng diện tích 564,0 m2 chia làm 04 ô đất,
- Ô đất của ông Trung (trúng đấu giá) diện tích 68,8m2, phía trước là đất hành lang giao thông do ông Vỵ tự bao chiếm diện tích 37,2m2
- Ô đất của ông Đỗ Hùng Vương (con trai ông Vỵ) đang ở diện tích 178m2 bao gồm cả phần diện tích đất hành lang giao thông do ông Vỵ tự bao chếm chưa được cấp GCNQSD đất.
- Ô đất của ông Nguyễn Trọng Cát (ông Vỵ đã bán cho ông Cát từ năm 1985 nhưng chưa làm thủ tục chuyển quyền theo quy định) diện tích 125m2 (bao gồm cả đất hành lang giao thông)
- Ô đất của ông Vỵ đang ở, diện tích 155m2 (bao gồm cả đất hành lang giao thông và phần diện tích được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 131,2 m2).
Như vậy so với diện tích được giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì diện tích đất của hộ ông Vỵ tăng thêm 364m2, nguyên nhân tăng là do diện tích trước đây quy hoạch đường Hòa Phong kéo dài mặt cắt 26,0m nay đường Hòa Phong kéo dài đã điều chỉnh hướng tuyến nên chỉ còn là đường nhánh mặt cắt 11,5m và việc trước đây đường giao thông đi bám theo chân đồi nay được nắn thẳng.
3. 4. Việc cưỡng chế tháo dỡ tài sản của UBND phường Nông Trang
Hộ ông Đỗ Vỵ được Nhà nước giao đất hợp thức và cắm đất trên thực địa diện tích 198,0m2 (sơ đồ thể hiện trước sau là đường giao thông). Cũng từ thửa đất này ông chuyển nhượng một phần thửa đất cho ông bà Thụ - Phương, ông bà Thụ - Phương chuyển nhượng cho ông bà Bình - Nhàn, đến năm 2008, ông, bà Bình - Nhàn chuyển nhượng lại cho con gái ông là bà Đỗ Thị Hồng Lê (hồ sơ thửa đất thể hiện có mặt trước, mặt sau là đường giao thông và có chữ ký giáp ranh của ông Đỗ Vỵ). Như vậy, có đủ cơ sở xác định, khi chuyển nhượng đất cho Phương, bà Nhàn và sau này ký giáp ranh cho bà Lê, ông đã công nhận việc người sử dụng về đất có lối đi vào là đất hành lang giao thông phía trước thửa đất 259-1.
Về giấy xác nhận nguồn gốc đất thổ cư của ông Đỗ Vỵ (do các hộ dân ở xung quanh xác nhận) chỉ xác định được thửa đất của ông nguồn gốc Nhà nước giao và sử dụng ổn định, không tranh chấp với các hộ liền kề. Không có đủ căn cứ để xác định ông vẫn còn một phần đất phía trước thửa đất 259-1.
Khi bà Đỗ Thị Hồng Lê và ông Nguyễn Hồng Đào buộc phải thực hiện nghĩa vụ thay cho ông Vương bà Hồng trong Bản án số 47/2012/QĐST-KDS về việc công nhận sự thỏa thuận của các đương sự ngày 04/12/2012 của Tòa án nhân dân hành phố Việt Trì; yêu cầu Thi hành án của ngân hàng, của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Việt Trì, Quyết định kê biên tài sản để đấu giá quyền sử dụng đất nhằm đảm bảo việc thi hành án, yêu cầu của người trúng đấu giá là được giao tài sản trúng đấu giá. UBND phường Nông Trang đã phối hợp với các đơn vị liên quan ban hành nhiều văn bản, tuyên truyền vận động gia đình ông Vỵ tự tháo dỡ để trả lại lối đi vào thửa đất cho người trúng đấu giá. Tuy nhiên, ông Vỵ không đồng ý và không thực hiện việc trả lại đất. Ông Vỵ liên tục có đơn kiến nghị gửi nhiều cấp, nhiều ngành, do đó việc giải phóng mặt bằng để giao đất cho người trúng đấu giá từ năm 2015 đến cuối năm 2017 mới thực hiện được thông qua việc cưỡng chế.
Trước khi tổ chức cưỡng chế, UBND phường Nông Trang thực hiện trên cơ sở ý kiến tham gia, đóng góp của các cấp, các ngành chức năng có thẩm quyền và căn cứ theo quy định của pháp luật, UBND phường Nông Trang tổ chức cưỡng chế tháo dỡ vật kiến trúc xây dựng trên phạm vi đất Nhà nước quản lý (đất hành lang giao thông). Toàn bộ các tài sản của ông cũng như của gia đình ông tập kết tại thửa đất 259-1 và phần công trình nằm trên đất hành lang giao thông do UBND phường Nông Trang tổ chức cưỡng chế được UBND phường liệt kê và niêm phong chuyển về kho của UBND phường bảo quản. UBND phường đã thông báo cho ông và gia đình 03 lần đến UBND phường để nhận tài sản, nhưng gia đình ông Đỗ Vỵ chưa thực hiện việc nhận lại tài sản.
- Đến ngày 05/02/2018 UBND phường Nông Trang nhận được đơn đề nghị của ông Nguyễn Quang Trung về việc gia đình ông Đỗ Vỵ tự ý hàn bịt lối đi phía trước thửa đất của ông. UBND phường đã kiểm tra và lập biên bản vi phạm hành chính ngày 05/3/2018, tuy nhiên gia đình ông Vỵ không chấp hành nên ngày 08/3/2018 UBND phường Nông Trang đã ban hành Quyết định số 19/QĐ-XPVPHC.
4. Nhận xét, kết luận
4.1. Nhận xét:
- Việc UBND phường Nông Trang thực hiện việc lập biên bản vi phạm hành chính đối với hành vi tự ý xây dựng lán tạm trên diện tích đất giao thông và hành lang giao thông do Nhà nước quản lý, yêu cầu chủ hộ tự khắc phục hậu quả là tự tháo dỡ công trình vi phạm, sau đó cưỡng chế tháo dỡ nhằm mở lối đi vào thửa đất trúng đấu giá quyền sử dụng đất (đối với tài sản đảm bảo thi hành án) là đúng quy định của pháp luật.
- Hộ ông Đỗ Vỵ được Nhà nước giao đất diện tích 200,0m2 (sơ đồ thể hiện trước sau là đường giao thông) đã tự ý bao chiếm mở rộng diện tích ra phần đất quy hoạch mở rộng đường giao thông (đường Hòa Phong kéo dài) là trái quy định và không thực hiện đúng nội dung trong biên bản cắm đất số 4438/95BB ngày 22/6/1995 cụ thể: “Hộ nhận đất có trách nhiệm quản lý đất mình được cắm theo đúng mốc giới đã được xác định…Tuyệt đối không được tự ý xây dựng lộn xộn trong mặt bằng và lấn chiếm đất dưới mọi hình thức...”.
Cũng từ thửa đất này hộ ông Vỵ đã chuyển nhượng một phần thửa đất cho bà Phương ông Thụ (cùng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Quyết định 1489/QĐ-UB ngày 20/11/2002 với ông Đỗ Vỵ), sau đó bà Phương, ông Thụ chuyển nhượng cho bà Nhàn, đến năm 2008, bà Nhàn chuyển nhượng lại cho con gái ông là bà Đỗ Thị Hồng Lê (hồ sơ thửa đất thể hiện có mặt trước, mặt sau là đường giao thông, đều thể hiện phía trước là đường giao thông rộng 26m và có chữ ký giáp ranh của ông Đỗ Vỵ). Như vậy, có thể xác định, khi chuyển nhượng đất cho bà Phương, bà Nhàn và sau này ký giáp ranh cho bà Lê, ông Vỵ đã công nhận phần đất hợp pháp của mình sử dụng cũng như việc người sử dụng đất về sau có lối đi là đất hành lang giao thông phía trước thửa đất 259-1 và giáp với đường giao thông.
Về Giấy xác nhận nguồn gốc đất thổ cư của ông Đỗ Vỵ chỉ xác định được thửa đất của ông nguồn gốc Nhà nước giao và sử dụng ổn định, không tranh chấp với các hộ liền kề. Không có đủ căn cứ để xác định ông vẫn còn một phần đất phía trước thửa đất 259-1.
Về yêu cầu được hợp thức đối với phần diện tích đã bao chiếm phía trước thửa đất số 259-1 của ông Đỗ Vỵ là không thực hiện được do đây là đất quy hoạch đường và hành lang giao thông, hơn nữa nếu hợp thức cho ông Vỵ thì không có đường vào thửa đất 259-1.
- Đối với nội dung không đồng ý với việc trả lời của UBND phường Nông Trang tại văn bản số 387/UBND-ĐC.XD. Sau khi thực hiện cưỡng chế tháo dỡ ngày 18/10/2017, UBND phường Nông Trang có nhận được đơn của ông Vỵ gửi trực tiếp (đơn ghi là đơn khiếu nại, kêu cứu khẩn cấp) khiếu nại Lãnh đạo UBND phường Nông Trang lợi dụng chức vụ, quyền hạn cưỡng chế thu hồi đất, phá dỡ tài sản trái pháp luật (đồng thời cũng nhận được đơn có cùng nội dung do UBND Thành phố và Ban Tiếp công dân tỉnh chuyển về có cùng nội dung). UBND phường đã kiểm tra rà soát lại toàn bộ qúa trình giải quyết và ban hành văn bản số 387/UBND-ĐC.XD ngày 18/10/2017 trả lời ông Vỵ là đúng vì diện tích đất trên không phải là đất hợp pháp của gia đình ông Vỵ (diện tích đất này là diện tích đất hành lang giao thông do ông tự bao chiếm và đây là lối đi duy nhất vào thửa đất 259-1), trên hồ sơ chuyển nhượng đất cho bà Phương, bà Nhàn và sau này là bà Lê, ông Vỵ đã ký giáp ranh công nhận phía trước thửa đất này giáp đường giao thông.
- Về ý kiến ông Vỵ cho rằng năm 2000 khi mua đất, gia đình ông Thụ, bà Phương chỉ mua đất phía trong với mục đích là đón đầu quy hoạch nên không có đường đi vào, sau này con gái ông mua lại cũng không có lối đi vào phải đi nhờ qua đất gia đình ông. Hiện nay nếu gia đình ông Trung có nhu cầu mở lối đi cần phải thỏa thuận với gia đình ông. Căn cứ khoản 3, Điều 280 Bộ luật dân sự năm 1995; khoản 3 Điều 275 Bộ luật dân sự năm 2005 và khoản 3, Điều 254 Bộ luật dân sự năm 2015 đều có quy định quyền về lối đi qua bất động sản liền kề “ …3- Trong trường hợp bất động sản được chia thành nhiều phần cho các chủ sở hữu, chủ sử dụng khác nhau, thì khi chia phải dành lối đi cần thiết cho người phía trong theo quy định tại khoản 2 Điều này mà không có đền bù.” Như vậy việc gia đình ông làm thủ tục chia tách (chuyển nhượng) nhưng không có lối đi vào thửa đất phía trong như ý kiến của ông là trái quy định. Tại buổi hòa giải ngày 11/4/2018 do UBND phường Nông Trang tổ chức, ông Nguyễn Quang Trung đồng ý trả cho ông Đỗ Vỵ 15.000.000đ tiền công cải tạo đất nhưng ông Đỗ Vỵ không đồng ý. Hơn nữa như xác định ở trên, phía trước thửa đất 259-1 là đất đường giao thông và hành lang nên đề nghị của ông không có cơ sở giải quyết.
- Việc UBND phường Nông Trang tiếp nhận đơn, thụ lý và giải quyết đơn khiếu nại của ông Đỗ Vỵ không theo quy định như: thời gian thụ lý đơn, thời gian giải quyết, không gửi cho công dân, không công bố quyết định xác minh, công khai quyết định giải quyết. Tuy nhiên việc vi phạm nêu trên không làm thay đổi bản chất vụ việc nên không cần xem xét hủy quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu. Chủ tịch UBND phường Nông Trang và các cán bộ tham mưu đề xuất việc thụ lý giải quyết đơn cần nghiêm túc rút kinh nghiệm.
4. 2. Kết luận:
Từ kết quả xác minh và nhận xét nêu trên, việc giải quyết khiếu nại lần đầu của Chủ tịch UBND phường Nông Trang tại Quyết định số 32/QĐ-UBND ngày 11/4/2018 là đúng quy định nên không có cơ sở để xem xét nội dung khiếu nại lần hai của ông Đỗ Vỵ. Tuy nhiên, Chủ tịch UBND phường Nông Trang và các cán bộ tham mưu đề xuất việc thụ lý giải quyết đơn cần nghiêm túc rút kinh nghiệm trong việc thụ lý giải quyết đơn khiếu nại.
5. Kết quả đối thoại
Tại buổi đối thoại ngày 23/8/2018, UBND thành phố Việt Trì đã thông báo cho ông Đỗ Vỵ về kết quả xác minh, biện pháp giải quyết khiếu nại và giải thích trả lời rõ các căn cứ quy định của pháp luật để xác định nguồn gốc đất, loại đất, căn cứ để UBND phường Nông Trang ban hành thông báo tháo dỡ, cưỡng chế tháo dỡ công trình vi phạm trên đất hành lang giao thông do nhà nước quản lý là đúng quy định. Tuy nhiên ông Đỗ Vỵ (ủy quyền là ông Nguyễn Văn Phúc) không đồng ý.
Từ kết quả xác minh và kết luận nêu trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Công nhận và giữ nguyên nội dung giải quyết khiếu lại lần đầu của Chủ tịch UBND phường Nông Trang tại Quyết định số 32/QĐ-UBND ngày 11/4/2018.
Điều 2. Trường hợp ông không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại lần 2 của Chủ tịch UBND Thành phố, ông Đỗ Vỵ có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Điều 3. Chánh Văn phòng HĐND và UBND Thành phố, Chánh Thanh tra Thành phố, Chủ tịch UBND phường Nông Trang và ông Đỗ Vỵ căn cứ Quyết định thực hiện./.
Nơi nhận: - Như Điều 3; - Chủ tịch UBND tỉnh (B/c); - Ban TCD tỉnh (B/c); - Thanh tra tỉnh (B/c); - TT. Thành ủy (B/c); - CT, các PCT UBND TP; - Phòng TN và MT; - Văn phòng HĐND và UBND TP; - Lưu: VT, TTr (L-20b).
|
KT. CHỦ TỊCH PHÓ CHỦ TỊCH
(Đã ký)
Tạ Chí Dũng |